Cấu tạo Đàn_tranh

Trung Quốc và Việt Nam

Đàn tranh và cổ tranh Trung Quốc (kể cả đàn sắt của Trung Quốc)đều có dạng hình hộp dài. Khung đàn hình thang có chiều dài 110–120 cm. Đầu lớn rộng khoảng 25–30cm là đầu có lỗ và con nhạn để mắc dây (trán đàn), khoảng cách giữa cầu đàn và trán đàn của đàn tranh Việt Nam và Triều Châu (Trung Quốc) người ta thay thế lỗ xỏ dây đàn bằng cách lắp đinh vít (thường là vít đồng) để buộc cố định dây . Đầu nhỏ rộng khoảng 15–20cm gắn 16 tới 25 khóa lên dây chéo qua mặt đàn (đàn sắt lên tới 50 khoá). Mặt đàn làm bằng ván gỗ ngô đồng dày khoảng 0,05cm uốn hình vòm. Ngựa đàn (còn gọi là con nhạn) nằm ở khoảng giữa để gác dây và có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh. Riêng cấu tạo đàn sắt gồm 25-50 ngựa đàn mắc với 25-50 dây. Dây đàn sắt được túm gọn và cuộn chặt cố định bằng 4 trục đàn lớn. Riêng với đàn sắt của Triều Tiên (Hangul: 슬, seul) thì thiết kế của nó tương tự như cổ tranh Trung Quốc, yatga Mông Cổ và mặt đàn được vẽ lên những chi tiết hoa lá chim muông tinh xảo, còn cổ tranh của Đài Loan sử dụng dây kép.

Con nhạn đàn cổ tranh Trung Quốc loại 16 dây

Dây đàn làm bằng kim loại với các cỡ dây khác nhau. Ngày xưa cổ tranh Trung Quốc dùng dây tơ. Khi biểu diễn nghệ nhân thường đeo ba móng gẩy vào ngón cái, trỏ và ngón giữa của tay phải để gẩy. Móng gẩy làm bằng các chất liệu khác nhau như kim loại, sừng hoặc đồi mồi [4][5]. Cổ tranh Trung Quốc thông thường khi diễn tấu phải đeo tất cả tám móng giả; đeo vào ngón cái, ngón trỏ, ngón áp út và ngón út. Riêng móng của ngón cái là cong hơn so với 3 ngón còn lại. Thứ tự dây cổ tranh tương đương với 5 thang âm: Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ và 21 dây của cổ tranh phân theo 5 âm khu: bội âm trầm, âm trầm, âm trung, âm cao và bội âm cao.

Móng gảy đàn cổ tranh Trung Quốc

Chỉ có đàn tranh Việt Nam và Đài Loan mới có trục đàn để lên dây, trục đàn đặt trên mặt đàn còn để giữ một đầu dây xếp hàng chéo do độ ngắn dài của dây, tạo âm thanh cao thấp, trục đàn tốt thường được làm bằng gỗ Trắc, gỗ cẩm lai hoặc gỗ gụ vì những loại đàn tranh còn lại là koto (Nhật), gayageum (Hàn Quốc), yatga (Mông Cổ) và cổ tranh (Trung Quốc) không hề có trục đàn thì phần chỉnh dây đàn được giấu trong hộp điều âm ở cầu đàn bên trái. Khi mở hộp ra phần chỉnh dây đàn gọi là chốt dây, và người ta sử dụng cờ lê chuyên dụng cho việc lên dây đàn để lên dây sau đó vặn chốt ngược chiều kim đồng hồ trước khi xếp ngựa đàn (con nhạn) để mắc dây; khi mắc ngựa đàn vào dây sẽ dùng cờ lê vặn chiều xuôi chốt lại để giữ chặt.

Con nhạn đàn tranh Việt Nam có một lỗ xâu dây cước hay dây tơ tổng hợp nhỏ. Đây là lý do khiến các dòng đàn tranh Á Đông không có, vì ngựa đàn tranh khi mua về đã được lắp đặt cố định, còn những đàn tranh kia thì phải lắp con nhạn trước khi gảy. Con nhạn cổ tranh song song với hộp điều âm và khoảng cách giữa con nhạn và hộp điều âm là tiền nhạc sơn (bên phải), hậu nhạc sơn là bên tay trái của con nhạn. Con nhạn của đàn sắt, đàn cổ tranh Trung Quốc, yatga Mông Cổ hay đàn tranh Việt Nam đều sử dụng con nhạn hình chiếc kìm chữ A mỏ vuông. Đàn cổ tranh Trung Quốc gồm hai loại chính là 整挖筝 (chính oát tranh) và 拼面筝 (bính diện tranh).

Mông Cổ

Ảnh chụp một phần của đàn tranh yatga Mông Cổ.

Đàn được thiết kế như một hộp với bề mặt lồi và uốn cong về phía cuối. Các dây được gảy và tạo âm thanh khá mềm mại. Ở Mông Cổ, đây là nhạc cụ được coi là bất khả xâm phạm và được chơi trong nghi lễ, ràng buộc với những điều cấm kị. Yatga được sử dụng chủ yếu tại triều đình và trong các tu viện từ khi các dây tượng trưng cho mười hai cấp độ của hệ thống phân cấp cung điện.

Mục đồng bị cấm chơi đàn tranh yatga mười hai dây, nhưng họ được phép chơi đàn tranh yatga mười dây, cũng được sử dụng cho thời gian giải lao trong lần trì tụng sử thi.

Người Mông Cổ truyền thống chơi ba loại đàn tranh yatga, phân biệt bằng hộp cộng hưởng hoặc thân đàn rỗng mà âm thanh được khuếch đại.

Nhật Bản

Cấu tạo đàn tranh koto của Nhật

Để làm ra đàn koto, trước tiên người thợ xẻ đốn gỗ từ cây Hông. Quy trình đó dùng để làm mặt đàn.Kích thước gần đúng của một cây koto là:

Chiều dài 164,5cm (64 3/4 in.)Chiều rộng 32,4 cm (12 3/4 in.)Chiều cao 24,1 cm (9,5 in. Bao gồm cả cầu đàn)

Gỗ được chuẩn bị để sản xuất đàn koto thường là những khối lớn và cần được xẻ ra thành các tấm gỗ có kích thước khác nhau dựa theo yêu cầu thiết kế và uốn cong tấm gỗ thành mặt đàn. Người thợ tiến hành bước này phải có sự tính toán tỉ mỉ để lượng gỗ đã được chuẩn bị từ trước được xẻ ra không bị thiếu hay thừa, đảm bảo sản phẩm được hoàn thiện tốt. Sau khi xẻ gỗ xong, thành phẩm sẽ được ngâm qua các hóa chất chống mối mọt và mặt sau của ván gỗ uốn cong thành mặt đàn người thợ khắc hình zigzag đều nhau thẳng hàng; kế tiếp, người thợ nung nóng một thanh sắt để đốt cháy mặt đàn. Biện pháp này giúp cho đàn làm ra bền hơn, khó bị các loại côn trùng mối mọt tấn công.

Sau đó, lấy một tấm gỗ nhẵn khác ốp lên mặt sau của mặt đàn. Tiếp theo, lấy nẹp gỗ và dây thừng để cố định đàn và dùng giấy ráp để làm nhẵn mặt đàn và phết nước sơn làm bóng mặt đàn.

Thông thường, đàn koto có 13 dây. Từ thời Nara, số lượng dây đã như vậy, mặc dù vào thời Edo có một số cây đàn koto có hơn 13 dây. Từ thời Meiji thì đàn koto nhiều dây, nhất là loại đàn 17 dây, xuất hiện nhiều hơn. Có nhiều loại dây to hay mảnh khác nhau, thường là màu vàng mặc dù màu đỏ hay xanh lá cây cũng nhiều. Dây đàn truyền thống làm từ tơ tằm bện thành dây thừng sợi nhỏ và giống như nhiều đàn dây của Nhật Bản khác được bện từ 4 sợi tơ thành 1 dây đàn. Dây đàn ngày nay hầu hết làm từ chất liệu polyester. Dây đàn bằng polyester có độ căng tốt hơn nên âm dài hơn và tốt hơn, lại không lo bị đứt khi đang diễn tấu, giá thành chế tạo lại thấp hơn nhiều. Vì thế, đàn với dây bằng polyester ngày nay trở nên phổ biến.Ngày nay, phiên bản hiện đại của đàn koto với 25 dây thường sử dụng nylon bọc thép dây. Dây nylon cũng đã được giới thiệu để sản xuất một âm thanh to hơn, được ưa thích cho đi kèm vũ đạo. Để chơi âm nhạc hiện đại, koto với một số lượng lớn dây đàn đã được phát triển, tăng phạm vi của dây đàn. Koto có sẵn với 13, 17, 18, 21, 22, hoặc 25 dây, mặc dù các công cụ có dây khác đang có sẵn theo yêu cầu. Nhạn đàn và cầu đàn koto xưa làm bằng ngà voi. Tuy nhiên ngày nay do ngà voi đắt tiền, nên cầu đàn và nhạn đàn bằng chất liệu tổng hợp khá phổ biến, nhất là nhựa PVC. Có cây đàn koto mà cầu đàn và nhạn đàn làm bằng xương cá voi. Koto 80 dây, được gọi là hachijugen (kanji: 八十絃; hiragana: はちじゅげん) trong tiếng Nhật, là một phát minh của nhà soạn nhạc Nhật Bản Michio Miyagi, xuất hiện vào năm 1923. Ông đã thêm 67 dây vào thiết kế 13 dây truyền thống, âm sắc koto 80 dây trong trẻo giống như đàn hạc phương tây. Cùng với koto thông thường, 80 dây cung cấp một phạm vi cao hơn nhiều so với koto tiêu chuẩn. Nó được xem rộng rãi như một công cụ thử nghiệm ngắn.

Triều Tiên và Hàn Quốc

Gayageum

Phần chốt dây và búi dây trang trí của đàn tranh sanjo gayageumCấu tạo đàn tranh gayageum của Hàn Quốc cũng như Triều TiênĐàn tranh Gayageum 15 dây

Dây đàn gayageum khá dày và được bện từ lụa tơ tằm.Âm nhạc Gayageum truyền thống có hai loại. Một loại là Gayageum tấu chính nhạc, hay còn gọi là Gayageum Beopgeum hoặc Gayageum phong lưu có lịch sử hình thành phát triển hơn 1500 năm. Nhưng khoảng cách giữa các dây đàn của nhạc cụ này xa nhau, nên khó có thể chơi được các bản nhạc có tiết tấu nhanh. Tới cuối thời Joseon, để có thể diễn tấu đa dạng âm nhạc, người ta đã cải tiến cây đàn tranh 12 dây Gayageum theo hướng nhỏ gọn hơn và có các dây đàn được mắc gần nhau hơn. Đàn tranh 12 dây Gayageum cải tiến thường được dùng để tấu nhạc dòng Sanjo hoặc đệm cho dân ca Minyo. Các ca nương thường dùng gayageum thường dùng để đệm hát những bài ả đào, gọi là hình thức gayageum byeongchang (강야금 병창).Sau này, khi âm nhạc châu Âu du nhập vào Hàn Quốc, đàn tranh Gayageum đã được cách tân một cách quả cảm mang sắc thái khác biệt hoàn toàn với Gayageum truyền thống và thời kỳ này bắt đầu xuất hiện đàn tranh Gayageum 13 dây, 15 dây, 18 dây… Gần đây, còn có cả đàn tranh Gayageum 25 dây diễn tấu âm nhạc sáng tác mới. Dây đàn cũng được sử dụng bằng chất liệu tơ lụa tổng hợp và người nghệ sĩ còn dùng cả hai tay để nhấn nhá búng gẩy dây đàn tạo âm thanh. Ngựa đàn (con nhạn) của gayageum rất đặc biệt, không như đàn sắt hay cổ tranh của Trung Quốc, ngựa đàn (con nhạn) gayageum có đầu tròn, cổ nhạn dài và đuôi nhạn cong 2 bên như chữ 人 (nhân) làm từ gỗ. Cụm từ 안족 (anjok - con nhạn) cũng ám chỉ chân con ngỗng trời.

Trên mặt đàn, anjok (con nhạn) hỗ trợ cố định dây. Những con nhạn di chuyển để điều chỉnh điều chỉnh và ngữ điệu. Các dây nối liền vào đầu của thân đàn từ tolgwae (chốt dây) bên dưới. Ở đầu bên kia, dây quấn quanh các vòng ở đầu dây dày, đi qua đai ốc sau đó luồn qua các lỗ ở dưới cùng của đàn và được bảo đảm, sau đó tất cả các dây được buộc trong một cuộn dây trang trí. Loại này chỉ có ở gayageum 12 dây. Loại Gaeryang gayageum luôn có hộp điều âm, trong hộp có chứa phần chốt xỏ dây bằng kim loại và gần đây dòng đàn sanjo gayageum hay jeongak gayageum có gắn thêm bộ gắn thêm những pickup nam châm kiểu giống guitar điện để khuếch đại âm thanh thông qua một amplifier hay PA system (hệ thống phân bố và khuếch đại âm thanh điện tử thông qua microphone, amplifier và loa) gọi là Jeonja gayageum (전자 가야금).

Geomungo

Geomungo dài khoảng 162 cm và rộng 23 cm (dài 63,75 inch, rộng 9 inch) và có những con nhạn có thể di chuyển được gọi là anjok (안족) và 16 ngựa đàn (phím) hình chữ nhật lớn nhỏ xếp gần nhau để mắc dây (giống ngựa đàn đáy Việt Nam). Nó có một thân rỗng, nơi tấm trước của nhạc cụ được làm bằng gỗ cây hông và tấm phía sau được làm bằng gỗ hạt dẻ cứng. Sáu dây của nó, được làm bằng dây thừng bện từ lụa xoắn đi qua thân của nó. Que gảy geomungo được làm từ tre tương đương kích thước của chiếc bút chì. Ba dây đàn trực tiếp trên các phím có thể dừng lại trong khi ba dây còn lại là các dây mở. Chỉ có 3 dây đàn ở giữa của geomungo 6 dây mới có ngựa đàn mắc dây. Các dây còn lại được mắc bởi con nhạn anjok hình chữ "nhân" (人), geomungo 11 dây cũng vậy. Đầu đàn gọi là Jwadan (좌단), phím cố định nhỏ gọi là gwae, daemo là phần khoảng cách giữa phím nhỏ (괘 gwae) nhỏ nhất và cầu đàn (현침hyeonchim). Gwiru (귀루) là phím lớn nhất mắc 3 dây giữa; các dây của geomungo 6 dây gồm có: munhyeon (무현 dây 1), yunhyeon (유현 dây 2), daehyeon (대현 dây 3), gwaesangcheon (괘상천 dây 4), gwaehacheon (괘하천 dây 5) và muhyeon (무현 dây 6). Ngoài ra còn có hakseul (학슬 nút thắt dây), budeul (부들 dây trang trí được tết thành búi giữ cho dây đàn tránh bị trùng và tuột), unjok (운족) là chân đàn, đuôi đàn là bongmi (봉미). Dưới đáy đàn gồm phần cộng hưởng (울림구맹ulrimgumeong), que gảy (술대 suldae) và chốt dây (돌괘 tolgwe). Riêng dây thứ tư khi dùng que gảy, que sẽ chạm vào mặt đàn lẫn dây và sẽ có tiếng đàn lẫn tiếng đập que vào mặt đàn khi gảy mạnh.

Geomungo hiện đại hóa tăng lên 11 dây, được làm bằng nylon. Như với phiên bản truyền thống, ba dây vượt qua các phím đàn và các dây khác đều mở. Nhưng phiên bản truyền thống của geomungo có 6 dây, với ba phím đàn. Một loại geomungo cổ để tấu chính nhạc có tên hoehyeongeum (회현금) và các geomungo còn lại gồm sanjo geomungo (산조 거문고) và jeongak geomungo (정악 거문고).

Gần đây, geomungo 6 dây đã được cải tiến khá nhiều, với sự xuất hiện của geomungo điện tử (천차 거문고). Geomungo chơi với cung Hwaldae (활대 거문고) (giống như chơi ajaeng và có loại chỉ vỏn vẹn 3 dây thì dây giữa mắc bởi hàng phím đỡ bên dưới mà khi kéo phải để dọc đàn), hoặc loại geomungo có nhiều dây hơn, được thu thập; thu hút sự chú ý của các nghệ sĩ trẻ. Khi kéo đàn geomungo bằng vĩ, âm thanh của nó trầm hơn ajaeng rất nhiều.

Trong sự phát triển của văn hóa, bên cạnh những nghệ sĩ bảo tồn, kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc, có những nghệ sĩ thay đổi và hiện đại hóa văn hóa truyền thống của dân tộc.

Ajaeng

Đàn tranh Ajaeng có thân đàn lớn làm bằng thân cây ngô đồng, cao hơn cả chiều cao của một người bình thường và có nhiều dây đàn được mắc ngang trên mặt bầu đàn. Dây đàn khá dày và được bện từ lụa tơ tằm. Gayageum, nhạc công có thể đặt lên đùi để diễn tấu, nhưng đối với đàn tranh Ajaeng họ phải kê lên kệ vì đàn to và nặng. Cung vĩ của đàn tranh Ajaeng được vót bằng cành cây hoa vàng mùa xuân Gaenari nên tốc độ biến âm chậm, không phù hợp để hòa âm cùng các nhạc cụ khác. Đàn tranh Ajaeng có âm thanh trầm nhất trong số các nhạc cụ truyền thống của Hàn Quốc. Giá đỡ đàn tranh ajaeng là chosang, cấu tạo của đàn tranh ajaeng gồm: đuôi đàn uốn cong xuống (미단 midan), cầu đàn (현침 hyeonchim), hakseul (학슬 nút thắt dây đàn), budeul (부들 búi dây trang trí, cố định để dây không bị tuột), ulimtong (우림통 đáy đàn chứa phần cộng hưởng), con nhạn (안족 anjok), đầu đàn (좌단 jwadan), dưới đáy đàn là tolgwe (돌괘 chốt dây) và cung vĩ để kéo (활 hwal). Cung vĩ thông thường chỉ là cành cây gaenari thì còn có cả cung vĩ từ lông đuôi ngựa hoặc dùng vĩ của violin để kéo.

Có năm loại đàn tranh Ajaeng, gồm Daeajaeng 9 dây (9 현 대아쟁), soajaeng 9 dây (9현 소아쟁), ajaeng 8 dây (8현 아쟁), 10 dây (정악 아쟁) và 12 dây (12현 아쟁).